Pre 1975:
Vạn Hạnh:
Post 1975:
Miscellaneous:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” và “đường lối Hồ Chí Minh”
Ðỗ Mười nói rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lê là cơ sở chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh”.(TCCS, 2/1995) Câu nói này biểu lộ thái độ của các lãnh tụ, và tất nhiên của cán bộ, đảng viên, và lý thuyết gia của ÐCSVN: biết nhưng không muốn, hay không dám, nói rạ Nóù chỉ đúng nếu mấy chữ “cơ sở chủ yếu của”õ được bỏ đi và câu đó sửa lại thành: “Chủ nghĩa Mác-Lê là tư tưởng của Hồ Chí Minh”. Hay thành: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Mác-Lê-nin” thì lại còn đúng hơn nữạ “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một từ ngữ vô nghĩa vì nó không có nội dung. Nó không chỉ định một hiện thực nào cả. Nó chỉ được tạo một cách dối trá để lường gạt hàng ngũ ÐCSVN và dân chúng Việt Nam và dư luận ngoại quốc.
Tội phạm về sự lường gạt dối trá nói trên không phải là ông Hồ Chí Minh. Như đã nói rõ ở trên, ông này đã thẳng thắn công nhận rằng ông “không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng Mác-Lênin”, và về tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, thế giới và xã hội con người, ông “chỉ là học trò của Mác, Ăng-ghen và Lê-nin mà thôi”.
Tội phạm là nhóm lãnh tụ hiện tại của ÐCSVN. Họ đã dùng cụm từ “chủ nghĩa Mác-Lênin vaø tư tưởng Hồ Chí Minh” (ở đây cần nhấn mạnh chữ “và”) để gây ngộ nhận rằng “chủ nghĩa Mác-Lê-nin” và “tư tưởng Hồ Chí Minh” là hai thực tại riêng biệt, đặc thù, trong khi hai từ ngữ này chỉ chỉ định có một thực tạị Thực tại đó là: chủ thuyết Mác-Lê-nin là căn bản lý luận của những đảng chính trị chủ trương một chế độ lê-ni-nít bôn-sê-vích. “Tư tưởng Hồ Chí Minh” chỉ là một tấm màn dùng để che đậy ý đồ tiếp tục áp dụng những phương pháp cai trị và thực hiện những mục tiêu mà Lê-nin chủ trương.
Thực ra, tấm màn này chẳng che đậy được gì. Như đã nói ở trên, tại Ðại hội VII, Ðào Duy Tùng đã báo cáo rằng các ủy viên Trung Ương Ðảng đã “nhất trí hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam”. Như vậy nghĩa là những người nắm quyền hành trong ÐCSVN và số phận của dân Việt Nam đã công nhận rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh” không phải là nguyên lý cơ bản, một chủ thuyết, mà nó chỉ là một sự vận dụng. Mà ngay cả như thế cũng không đúng vì nó chỉ là sản phẩm của một sự vận dụng — hai cấp dưới nguyên lý. Nó không phải một chủ thuyết riêng biệt, đặc thù do ông Hồ cố ý tạo ra, mà chỉ là một bịa đặt, một sản phẩm do nhóm lãnh tụ hiện tại của ÐCSVN tạo ra một cách hấp tấp trong một hoàn cảnh khẩn trương, một sự lợi dụng uy danh ông Hồ để chuẩn bị một sự liệng bỏ nhãn hiệu “Mác-Lê” mà vẫn giữ nguyên chế độ chuyên chế độc tài Mác-Lê sau này, khi làn sóng đòi đổi thay và chuyển hướng không thể chận được nữạ
Tuy nhiên, khi nói rằng không có “tư tưởng Hồ Chí Minh”, theo nghĩa một hệ thống tư tưởng rộng lớn thâm thúy, ta phải đồng thời công nhận rằng có “đường lối Hồ Chí Minh”, “chủ trương Hồ Chí Minh”, “chính sách Hồ Chí Minh”, “sách lược Hồ Chí Minh”, “tinh thần Hồ Chí Minh” v.v…Tất nhiên những đường lối, chủ trương, v.v…này mang phong cách và văn phong độc đáo của ông. Tất cả đều mang một đặc tính chung có thể gôm trong danh từ “cách mạng”. Nhưng ngay cả ở đây, ta cũng không kéo ông Hồ ra khỏi cái khung Mác-Lê mà ông đã kiên quyết tự đặt mình vào từ lúc ông tiếp xúc với tư tưởng Lê-nin, năm 1920, và “hoàn toàn tin theo Lê-nin và Ðệ Tam Quốc Tế”.[14]
Biệt tính của ông Hồ là cách mạng. Như ông viết trong tập bài dùng để huấn luyện tốp cọng sản đầu tiên ở Quảng Ðông trong những năm 1925-1926,Ðường Kách Mệnh, “Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: CÁCH MỆNH! CÁCH MỆNH! CÁCH MỆNH!”.[15] Nhưng, khác với cách mạng của những nhà ái quốc trước ông, “cách mạng” của ông là cách mạng kiểu Lê-nin.
Ông Hồ nhấn mạnh rằng sự tin theo Lê-nin và Ðệ Tam Quốc Tế của ông là một sự tin theo “hoàn toàn”. Do đó, sự “vận dụng” tư tưởng Lê-nin của ông vào cách mạng ở Việt Nam tất nhiên cũng phải là một sự áp dụng hoàn toàn, triệt để, toàn bộ. Cho nên muốn hiểu con đường cách mạng, chủ trương cách mạng, và tinh thần cách mạng của ông, chúng ta cũng phải biết rõ về chủ thuyết của Lê-nin.
Tài liệu mà chúng ta cần cứu xét để hiểu đường lối chủ trương của ông Hồ và Lê-nin là một số tuyên bố, báo cáo, bài viết cho báo chí, phỏng vấn, được thâu góp thành tập, hoặc toàn tập (Hồ Chí Minh: 10 tập, Lê-nin: 30 tập), hoặc, tiện hơn, tuyển tập (Hồ Chí Minh: 2 tập; Lê-nin: 3 tập). Tất nhiên ta không cần phải đọc hết những tập này, mà chỉ cần cứu xét một số tác phẩm then chốt. Giới hạn của bài này không phép trình bày chi tiết từng bài trong sốû những bài đó mà chỉ nhắc đến chúng trong phần chú dẫn,[16] nhưng nội dung của chúng sẽ được đề cập đến rộng rãi ở đoạn dưới đâỵ Ðể cho bản văn khỏi nặng nề, những gì có tính cách phổ cập sẽ không mang chú dẫn.
Ông Hồ là một người yêu nước. Vì yêu nước ông đi vào con đường cách mạng, và tinh thần cách mạng ông rất caọ Ðều đó không thể phủ nhận. Nhưng ông không phải là người duy nhứt ở trong tình trạng nàỵ Có bao nhiều khác thuộc thế hệ trước ông — các cụ Phan Ðình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, …. –, thuộc thế hệ ông — Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tường Tam ….– hoặc sau ông — thế hệ sau thế giới chiến thứ nhứt — cũng vì lòng yêu nước nồng nhiệt đã tham gia vào cuộc chiến đấu dành độc lập cho xứ sở.
Các cơ quan tuyên truyền của ÐCSVN không ngớt nói rằng năm 1911 ông Hồ đã rời
xứ đi Tây phương “để tìm đường cứu nước”. Thật ra, trong tự truyện của ông dưới bút hiệu Trần Dân Tiên,[17] ông ta chỉ nói rằng ông đi Tây phưong để xem có học được gì để về “giúp nước” không. Lúc này, cũng như các nhà cách mạng khác, ông không kiêu căng cho rằng mình là người “cứu nước”. Tư cách “cứu nước” này do đồ đệ ông đưa ra sau này để lợi dụng uy danh của ông.
Nhưng ra đi với ý định như thế thì cũng như bao nhiêu người Việt Nam khác, cũng vì yêu nước, đã kiếm đường xuất ngoại như ông. Cụ Phan Bội Châu và rất
nhiều người thuộc phong trào Ðông du đã làm như vậỵ Và biết bao nhiêu thanh niên trong phong trào Tây du sau này, trong lứa tuổi 20, khi đặt chưn xuống Marseilles , cũng có có ý nghĩ như ông Hồ vậỵ
Ðặc điểm chung về những người Ðông du hoặc Tây du trên đây là mục tiêu của cách mạng của họ chỉ là chống Pháp dành lại độc lập cho Việt Nam. Họ không có tham vọng xoay trời chuyển đất — thay đổi quan hệ lực lượng trên thế giới; lật đỗ chính quyền của nước khác, nhứt là của những đại cường quốc; tiêu diệt một chế độ kinh tế xã hội nào; và họ không hề có dã tâm chủ trương, hay
nghĩ đến, việc trấn áp, thanh toán, hàng ngàn, hàng vạn đồng bào, hoặc tước quyền làm người và làm công dân của những người Việt không “tiếp thu” một chủ thuyết chủ trương “cách mạng thế giới” theo kiểu Lê-ni-nít.
Con đường của ông Hồ thì khác hẳn. Ngay từ năm 1920, ông đã dứt khoát, nhứt quyết, và hoàn toàn lựa chọn theo Lê-nin và Ðệ Tam Quốc tế. Ai cũng biết rằng Lê-nin là người đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng tháng 10 (1917), mở đường cho Ðảng Cọng Sản Nga cướp chính quyền, và lập ra Liên bang Xô viết. Nhưng có một điều cần nhấn mạnh ở đâỵ Ðó là mục tiêu lớn của Lê-nin
không phải là cải tạo nước Nga, mà cải tạo thế giới, diệt tiêu chủ nghĩa tư sản trên qui mô toàn cầụ Với một người ký giả hỏi ông về ý định của ông về thể chế sẽ được thiết lập ở Nga, ông ta trả lời rằng ông nhứt quyết thiết lập một quốc gia xã hội chủ nghĩa Nga, nhưng đây không phải là mục tiêu chính của ông. “Mục tiêu chính không phải là NgẳTôi nhổ nước bọt vào nước Nga (I spit on Russia). Ðây chỉ là một giai đoạn trên đường đi đến cách mạng thế giớị…..Tôi sẽ tiêu diệt tất cả…..Tôi sẽ thẳng tay trừng trị tất cả những kẻ chống lại cách-mạng”.[18]
Ðể thực hiện ý đồ cách mạng thế giới, năm 1919, Lê-nin lập ra Ðệ Tam Quốc Tế. Cũng như Ðảng Cọng Sản Nga, Ðệ Tam Quốc Tế này được tổ chức theo mô hình bôn-sê-vích, nghĩa là như một đạo quân cách mạng chuyên nghiệp, tuân theo một kỷ luật sắt, và nằm dưới quyền chỉ huy của một ban Tổng tham mưu thống nhứt có quyền hành tuyệt đốị Thành phần của ÐTQT này là các đảng cọng sản của các nước. Nhưng những đảng này do một Ủûy Ban Chấp Hành Trung Ương điều khiển và phải tuyệt đối thi hành mệnh lệnh của ủy ban này, như các đơn vị trong một đạo quân tuân lệnh Tổng tư lệnh. Ðặc điểm của tổ chức là ÐTQT phải được coi như là đảng cọng sản thế giớị Trên toàn thế giới chỉ có một đảng cọng sản. Các đảng cọng sản các nước chỉ là chi bộ của đảng này, và lãnh tụ của Ðảng Cọng Sản Nga là lãnh tụ toàn quyền của tổ chức. Ðây là áp dụng nguyên tắc bôn-sê-vích tập trung dân chủ mà Lê-nin buộc tất cả những người theo cọng sản phải chấp nhận.
Trên đây là những tư tưởng và mô thức thực hành mà ông Hồ Chí Minh chấp nhận “hoàn toàn”, áp dụng và truyền bá vào Việt Nam. Từ 1923, lúc còn ở Nga, ông đã hiểu rõ tính chất của chủ thuyết Lê-nin và Ðệ Tam Quốc Tế. Trong một bức thư gởi từ Môskôva cho ÐCS Pháp, ông nhắc họ rằng “Quốc tế của chúng ta” là “một đảng duy nhứt”. Ngay trong những bài giảng cho nhóm đồ đệ đầu tiên của ông ở Quảng Ðông những năm 1925-1926, ông đã nhấn mạnh rằng có nhiều học thuyết cách mạng, nhưng “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”, và “Ðệ tam quốc tế là một đảng cọng sản thế giớị Các đảng các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch Ðệ tam quốc tế thì các đảng không được làm”.[19] Trong một bức thư gởi cho Ban Chấp Hành Trung Ương ÐCS Ðông Dương, tháng 4 năm 1931, ông Hồ nhắc các chi bộ Ðảng rằng “Những nghị quyết [của các chi bộ] phải đệ trình lên Trung Ương. Trung ương sẽ chuyển lên Quốc tế thứ bẳ..Có làm như thế…sự liên lạc từ chi bộ đến Quốc tế thứ ba mới thực hiện được. Ðó là ý nguyện của Quốc tế thứ ba”.[20]
Trong chủ thuyết/tư tưởng Lê-nin có ba quan niệm khá đặc biết. Quan niệm thứ nhứt làø quan niệm về chuyên chế và việc xử dụng bạo lực. Lê-nin chủ trương chuyên chế triệt để và xử dụng bạo lực tối đạ Theo ông ta, một trong những mục tiêu của cách mạng là thiết lập một chế độ chuyên chế vô sản, và ông quan niệm rằng chuyên chế vô sản là “xử dụng bạo lực tối đa không chấp nhận một giới hạn nào hết”. Quan niệm thứ hai là quan niệm về tinh thần quốc tế vô sản. Ông đòi hỏi những người muốn theo cọng sản phải từ bỏ hoàn toàn “tinh thần quốc gia”, mà ông gọi là “tinh thần tư sản”. Người có tinh thần này coi việc bảo vệ quốc gia của mình là một nhiệm vụ cao cả. Ðối với Lê-nin, đó là tinh thần quốc gia “hẹp hòi”. Ông đòi người cọng sản phải dứt khoát biểu hiện “tinh thần quốc tế vô sản chân chính”, nghĩa là làm tất cả những gì đem lại thắng lợi cho cuộc cách mạng vô sản, từ chối, và ngay cả chống lại sự tham gia vào sự bảo vệ của quốc gia mình nếu những người cầm quyền thuộc về giới tư sản.
Cuối cùng, một trong những quan niệm quan trọng, và có thể nói là quan trọng nhứt, của Lê-nin liên quan đến vấn đề sách lược. Theo Lê-nin, sự thành công hay thất bại của cách mạng tùy thuộc sự kiện người làm cách mạng có đủ khả năng hay không để áp dụng những biện pháp sách lược uyển chuyển tối đa, trong khi hết sức cứng rắn về phương diện nguyên tắc và chiến lược. Người làm cách mạng phải luôn luôn sẵn sàng thay đổi sách lược để thích ứng với tình hình, kể cả chấp nhận nhân nhượng khi cần thiết để tránh tổn thất tai hại cho cách mạng. Kẻ nào không biết nhân nhượng không phải là người xứng đáng mang danh cách mạng. Ông ta đã viết một tác phẩm danh tiếng, Cọng sản tả khuynh, một căn bệnh ấu trĩ (Left-wing communism — an infantile disorder), để làm nổi bật tầm quan trọng của vấn đề nàỵ
Những đều nêu trên là cái “bất biến” mà ông Hồ dạy đồ đệ của ông dùng để “ứng vạn biến” và thực hiện mục tiêu của người cọng sản chân chính: cách mạng thế giới theo ý nguyện của Lê-nin và Ðệ Tam Quốc Tế.
Ông Hồ thường nhắc đến “thời cơ” và “đoàn kết”. Từ 1920 đến năm 1945, thời cơ và đoàn kết chưa có nên ý nguyện của Lê-nin và ÐTQT không thực hiện được. Theo chủ thuyết Lê-nin, phải mềm dẻo về sách lược (chiến thuật). Cho nên ông Hồ, với tư cách là đại diện của ÐTQT, thường chỉ thị cho ÐCSÐD một đàng –trong Ðảng — thì phải triệt để bôn-sê-vích hoá, nhưng một đàng — ngoài Ðảng — thì đừng có ồn ào về tính cách cọng sản của Ðảng, phải dùng sách lược uyển chuyển để lôi kéo những phần tử không cọng sản và phân hoá phe địch. Ðường lối của Ðảng là: “chiến lược không thay đổi, còn chiến sách thì tùy theo tình hình…..thay đổi mà sửa đổi luôn”; phải “gây dựng một Ðảng đích thực bôn-sê-vích”; người cọng sản “phải hiểu rõ chiến sách và chiến lược của bộ tham mưu của thế giới cách mệnh là Quốc tế cọng sản”; “chúng ta theo chủ nghĩa quốc tế, không phải theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng….chúng ta phải nâng cao tinh thần tranh đấu giải phóng…nghĩa là hình thức thì dân tộc mà nội dung thì quốc tế”.[21]
Tưởng cần nói rõ ở đây là qui chế của ÐTQTø buộc các đảng cọng sản phải đệ trình nghị quyết của mình cho UBCH của tổ chức này duyệt xét trước khi thi hành. Phần khác, ngay từ lúc đến Môskôva (1923) ông Hồ được công nhận là một “Cominternchik” (cán bộ ưu tú hạng nhứt của ÐTQT) và một người nắm rất vững chủ thuyết Lê-nin. Do đó ông được cử làm đại diện của tổ chức này ở Ðông Nam Á. Theo tác giả Liên-Xô ẠReznikov, với tư cách này, ông được UBCH giao cho trách nhiệm duyệt xét các nghị quyết của ÐCSVN. Như thế có thể coi ông như là tác giả đương nhiên của những nghị quyết của ÐCSVN. Phần khác, ÐTQT đã cùng với ÐCS Pháp cho dịch ra những văn kiện căn bản của ÐTQT và tác phẩm của Lê-nin cho ÐCSVN dùng.[22]
Vì những lý do kể trên, từ 1931 đến 1947, và có thể nói đến 1951, ông Hồ đã áp dụng rất đúng chiến thuật kiểu Lê-nin và lèo lái ÐCSVN theo một đường lối “uyển chuyển”, đường lối “Mặt trận thống nhứt” — trong Ðảng gọi là “đường lối Dimitrov”, theo tên chủ tịch UBCH của ÐTQT thời đó –. Ðây là đường lối “mặt trận liên hiệp” được Stalin ấn định để đương đầu với nguy cơ phát xít sau khi Hitler và Mussolini nắm quyền ở Ðức và Ý, và liên minh với Nhựt bổn. Liên hiệp là liên hiệp với các chính phủ tư sản và các đảng phái thành phần tư sản. Ðều này giải thích tại sao Hồ Chí Minh ép ÐCSVN phải theo đường lối tương đối ôn hoà — “đại đoàn kết”, “mặt trận”, “liên hiệp” — đối với những đảng phái và thành phần quốc gia không cọng sản — ngoại trừ đảng viên Tờ-rốt-skít — vì Stalin coi những thành phần này là kẻ thù không đội trời chung –.
Ðảng viên ÐCSVN đuợc chỉ thị tuyệt đối không được nói đến “cọng sản” mà chỉ dùng danh từ “cứu quốc” trong giao thiệp với ngoài Ðảng. Theo Bà Lê Thị Anh, ở Nam Bộ cán bộ cọng sản được lệnh đừng dương cờ cọng sản.[23]Ở Thái Lan cũng vậy, theo ông Hoàng Văn Hoan.[24] Với người Mỹ, ông Hồ và ông Giáp quả quyết với Thiếu Tá Patti, trưởng phái bộ Mỹ ở Hà Nội, rằng họ là “quốc gia trước và đảng viên [Ðảng cọng sản] sau”(“nationalist first, and party members second”).[25] Tháng 11 năm 1945, để “chứng minh” rằng ông và đồng chí của ông không phải là cọng sản, ông ra lệnh “giải tán” ngay cả ÐCSVN. Nhưng, như ông giải thích sau này, năm 1951, đó chỉ là chuyện vậy mà không phải vậy: Ðảng giải tán, nhưng vẫn nắm thực quyền.
Năm 1951, sau khi cọng sản Trung hoa đã thắng phe quốc gia của Tưởng Giới Thạch, quân Trung cọng đến biên giới Việt Nam và viện trợ quy mô cho binh đội của ông, đặt ÐCSVN vào thế chiến thắng chắc chắn, ông Hồ mới công khai dương cờ thực sự của ông lên và tự nhận là cọng sản và đồ đệ của Lê-nin.
Năm 1951 là năm ông Hồ cho ÐCSVN xuất hiện trở lại, tuy rằng vẫn với một nhãn hiệu mang màu hồng nhạt — Ðảng Lao Ðộng Việt Nam –, vì Ðảng vẫn chưa ở thế hoàn toàn làm chủ tình hình, còn cần sự hợp tác của những phần tử quốc gia không cọng sản để đạt mục đích thực của mình.
Dù sao, đây là dịp ông công bố rằng từ ngày Cách mạng tháng 10 thành công và Lê-nin xây dựng QTCS thành một đại gia đình cọng sản, “Ðảng ta là một trong những con út của đại gia đình ấy”, và ý nghĩa của Cách mạng tháng 8 là cách mạng đó “đã cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giớị..phe dân chủ do Liên-Xô lãnh đạo”. Nhân dịp này ông nói rõ rằng thế nào mới là yêu nước “chân chính”. Ðó làø yêu nước theo quan niệm Lê-nin. Ông giải thích: “yêu nước chân chính” là “một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Tinh thần “quốc tế” đây, theo giải thích được nhắc đi nhắc lại không ngớt của các lãnh tụ ÐCSVN là “quốc tế vô sản”.
Quan trọng hơn cả, ông Hồ hãnh diện tuyên bố rằng “ta có một Ðảng to lớn, mạnh mẽ ….là vì ta có chủ nghĩa Mác-Lê-nin…”. Ðảng đó mang tên Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
“Về lý luận, Ðảng Lao Ðộng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin
Về tổ chức, Ðảng Lao động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung.
Về kỷ luật, Ðảng Lao động theo kỷ luật sắt…
Về luật phát triển, Ðảng Lao động Việt nam dùng lối phê bình và tự phê
bình”.
(Hai điểm chót này là hai điểm quan trọng trong chủ thuyết Lê-nin về tổ chức những đảng bôn-sê-vích.)
Di sản của Hồ Chí Minh
Trên đây là đường lối, lập trường, căn bản mà ông Hồ đã truyền lại cho đồ đệ ông. Những tuyên bố của ông từ đó đến lúc ông qua đời (1969), cũng như những tuyên bố và bài bản của các lãnh tụ và các cơ quan ÐCSVN, chỉ là những bản sao đi chép lại, thêm bớt ít nhiều, sắp xếp khác nhau, của đường lối lập trường nàỵ
Về phương diện áp dụng, trong những giáo huấn của ông Hồ có một số mà những lãnh tụ và các cơ quan tuyên huấn của ÐCSVN nhắc đi nhắc lại không ngừng. Ðó là: 1/ kết hợp độc lập với chủ nghĩa cọng sản; 2/ kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản; 3/ bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa; 4/ tin tưởng rằng chủ nghĩa cọng sản sẽ thắng chủ nghĩa tư bản; 5/ đặt Ðảng lên trên hết.
Về điểm 1 và 2 , đồ đệ ông Hồ nhận thấy ở ông “một chiến sĩ cọng sản vĩ đại”, “tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng độc lập với lý tưởng cọng sản chủ nghĩa, giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản”, người phát hiện ra sự thật thâm thúy là “độc lập không thể tách rời chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cọng sản”,[26] “hiện thân của chủ nghĩa quốc tế vô sản vô cùng trung thực và trong sáng”, người thiên tài đã thấy nhu cầu “gắn chặt sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”,[27] đã “thấy rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, và nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam là ủng hộ Liên-Xô”.[28]
Cũng trong chiều hướng đó, Lê-Duẫn nói về ông Hồ như sau: “Là người học trò trung thành của Các Mác và Lê-nin, Hồ Chủ Tịch chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ xuất sắc trong phong trào cọng sản quốc tế…..thường dạy chúng ta phải chăm lo bảo vệ đoàn kết quốc tế, vì sự nghiệp to lớn của cách mạng Việt Nam, vì nghĩa vụ cao cả đối với cách mạng thế giớị”[29]
Về phương diện này, tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng ông Hồ cũng đã xác định rất rõ lập trường căn bản của ông và của đảng mà ông tạo rạ Tại Ðại hội III, năm 1960, nghĩa là đại hội sau khi miền Bắc Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, ông tuyên bố:
“Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hòa bình xã hội chủ nghĩa trên thế giớị Nuớc Việt Nam dân chủ cọng hoà là một thành viên trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên-Xô vĩ đạị
Chúng ta có nhiệm vụ giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Ðông Nam Á, ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Ðông Nam Á và trên thế giới” [30] (nghĩa là an ninh của Liên-Xô và phe cọng sản)
Tóm tắt: ông Hồ 1/ đã ghép cứng độc lập Việt Nam vào chủ nghĩa cọng sản, và 2/ cột chặt số phận Việt Nam vào Liên-Xô và phong trào cọng sản quốc tế. Như ta sẽ thấy ở đoạn dưới, sự cột chặt này sẽ có những hậu quả lớn lao cho Việt Nam trước cũng như sau 1975.
Về điểm 3, như Phạm Văn Ðồng ghi nhận: một đóng góp của Hồ Chí Minh là “đường lối cách mạng nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không trải qua giai đoạn phát triển tư bản”.[31] Các lãnh tụ ÐCSVN coi đây là một đóng góp rất lớn của ông Hồ vì nó cho nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa khả năng tiến nhanh trên đường phát triển kinh tế để thực hiện chủ nghĩa xã hội và cọng sản. Sau khi chiếm được quyền trên toàn cõi Việt Nam, Lê Duẫn và các đồng chí của ông tin chắc như vậỵ
Trong Báo cáo chính trị tại Ðại hội IV, năm 1976, Lê Duẫn nhấn mạnh rằng đặc điểm lớn nhất nói lên thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.[32] Khẩu hiệu được tung ra lúc đó là “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”.
Ông Hồ đã kể (trong Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện…) rằng, năm 1920, ông đã khóc lên khi được đọc “Luận cường về vấn đề quốc gia và thuộc địa” của Lê-nin vì ông nghĩ rằng ông đã tìm ra con đường cứu nước. Trước đó ông đứng trước một vấn đề nan giải: theo qui luật phát triển xã hội của Mác, con đường đi từ chế độ phong kiến đến chế độ xã hội phải qua chế độ tư bản trước, vậy lấy ai để làm cách mạng, và làm sao thực hiện chủ nghĩa cọng sản được trong tình trạng một nước Việt Nam còn phong kiến, chậm tiến, chưa có cơ sở kỷ nghệ gì cả ? Lê-nin đã trấn an ông với luận điểm rằng một nước chậm tiến theo cọng sản có thể đi thẳng lên chủ nghĩa cọng sản không cần qua giai đoạn tư bản vì có sự giúp đỡ của các nước cọng sản khác đã phát triển.
Luận điểm trên đây, tuy hay, nhưng không có gì bảo đảm là nó sẽ được thực tại lịch sử xác nhận. Tuy vậy, ông Hồ vẫn tin chắc vào thiên tài của Lê-nin, và năm 1960, ông phán quyết rằng, về kinh tế, “Miền bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hộị Mà đặïc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[33]
Về điểm 4, vì tin mãnh liệt rằng Lê-nin là một “nhà chiến lược vĩ đại”, còn vĩ đại hơn Stalin và Mao, không thể lầm được, ông ta tất nhiên chấp nhận không chút thắc mắc thuyết về chiến tranh không thể tránh được của ông nàỵ Ngay từ ngày ông khai sinh ra ÐCSVN, năm 1930, ông đã nói lên sự phân chia của thế giới chia thành hai phe, và sự xung đột không thể tránh được của hai phe đó. Trong xự xung đột này, phe thắng tất nhiên sẽ là phe cọng sản. Năm 1951, tại Ðại hội II, phân tách tình hình, ông tỏ ra rất lạc quan. Ông cho rằng nửa thế kỷ 1900-1950 có rất nhiều việc “rất quan trọng”, như Cách mạng tháng 10 Nga đã thành công và quân đội Liên-Xô chiến thắng năm 1945, và nhờ đó một nửa loài người đã tiến vào “dân chủ mới”, “song chúng ta có thể đoán rằng…nửa thế kỷ sau này sẽ có những biến đổi to lớn hơn nữa, vẻ vang hơn nữa”. [34] Tại Ðại hội III, năm 1960, ông lại càng tỏ vẻ tin tưởng mạnh hơn nữạ Ông nói:
“Ngày nay, chủ nghĩa xã hội đã thành một hệ thống thế giới hùng mạnh, vững chắc như lũy thép thành đồng….Rõ ràng là lực lượng…xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã mạnh hơn hẳn phe đế quốc…Chủ nghĩa xã hội cuối cùng nhất định sẽ toàn thắng khắp thế giớị”[35]
Ông Hồ qua đời năm 1969. Nếu ông còn sống năm 1975, chắc tin tưởng của ông còn mạnh hơn nữạ Nhưng các đồ đệ của ông đã thay ông làm việc đó. Báo cáo chính trị của Lê Duẫn, và những diễn văn của ông ta và của những lãnh tụ khác của ÐCSVN trong suốt thời gian 1975 đến 1991 đều nói lên sự thắng lợi chắc chắn của phe cọng sản và chủ nghĩa cọng sản. Ở đây chỉ đưa ra hai thí dụ để làm sáng tỏ điểm nàỵ Trong Báo cáo chính trị Ðại hội IV, đại hội chiến thắng (tháng 12 năm 1976) Lê Duẫn tuyên bố:
“Dưới sự lãnh đạo thiên tài của Lê-nin, Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thắng lợi là bước nhảy vọt vĩ đại đầu tiên mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giớị…Ưu thế ấy cứ theo thời gian mà tăng lên một cách chắn chắn, không gì ngăn cản được….Cuộc sống hàng ngày chứng tỏ sức mạnh của chủ nghĩa xã hội là vô địch và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng phát huy tác dụng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người.” …..Tình hình cách mạng thế giới ngày nay thuận lợi hơn bao giờ hết, và đang đứng trước những triển vọng vô cùng tốt đẹp”[36] (Lê Duẫn nhấn mạnh)
Mười năm sau, sự lạc quan của nhóm lãnh đại ÐCSVN vẫn không bờ bến. Báo cáo chính trị Ðại hội VI (tháng 12 năm 1986), do Trường Chinh đọc, nói:
“Các lực lượng cách mạng trên thế giới đang không ngừng mạnh lên và rõ ràng ở thế chủ động, tiến công. Lực lượng mọi mặt của hệ thống xã hội chủ nghĩa, do Liên-Xô làm cột trụ, ngày càng được tăng cường….Hệ thống xả hội chủ nghĩa tiến vào giai đoạn phát triển mới với chất lượng mớị Những thành tựu của cộng đồng xã hội chủ nghĩẳ..là nhân tố quyết định trong sự tranh đua giữa hai hệ thống chính trị xã hội đối lập trên thế giớị”[37]
Sự tin tưởng vào Liên-Xô này kéo dài cho đến khi Liên-Xô giải thể. Ngay 6 tháng trước đó, tại Ðại hội VII (tháng 6 náùm 1991) các lãnh tụ của ÐCSVN còn tin chắc vào “lòng tin cậy và sự ủng hộ mạnh mẽ của Liên-Xô” và tuyên bố rằng “trước sau như một sẽ tăng cường đoàn kết hợp tác với Liên-Xô”.[38]
Cuối cùng, về điểm 5, tưởng cần nhắc ở đây rằng một trong những điểm quan trọng nhứt trong chủ thuyết Lê-nin là muốn cách mạng chắc chắn thành công phải có một công cụ hữu hiệụ Ðó là một đảng cách mạng mà những đảng viên là những người cách mạng chuyên nghiệp và tuyệt đối trung thành với đảng. Là một người cho rằng chủ nghĩa bôn-sê-vích là “một vũ khí tuyệt diệu”,[39] ông Hồ tất nhiên phải dạy đảng viên đặt Ðảng vào ưu tư hàng đầu của họ. Vì vậy, khi đề cập đến đạo đức cách mạng, ông huấn thị họ rằng: “tiêu chuẩn số một của ngưòøi cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Ðảng, cho cách mạng…..Ðạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Ðảng lên trên hết”.[40]
Trong nhãn quan ông Hồ và các đồ đệ của ông, Ðảng chiếm phần quan trọng hơn nước và dân. Các văn kiện của Ðảng thường sắp ba thực thể này theo thứ tự: 1/Ðảng, 2/ Nhà nước (Chính phủ), 3/ Dân. Trong một thông điệp gởi cho quân đội, ông Hồ nói họ phải “trung với Ðảng, hiếu với dân”.[41]Về Nước thì không thấy thông điệp này đề cập đến.
Trong văn hoá Á đông khái niệm “trung” thường đi đối với “vua”, là tượng trưng cho nước, “dân” đuợc coi là quan trọng hơn “nước, và “nuớc” quan trọng hơn “vua” (“dân ví qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”). Ghép “trung” vào “đảng” hàm ý coi “đảng” là “vua”. Tất nhiên, trong Ðảng cũng phải có người thấy rằng như vậy là ngang trái nên, trong phần lớn bài bản, thứ tự được sửa lại là “trung với nước, hiếu với dân”. Nhưng trong một số tài liệu chính thức quan trọng hạng nhứt của Ðảng, sự sắt xếp Ðảng-Dân vẫn giữ nguyên. Trong tác phẩm Chủ Tịch Hồ Chí Minh do Ban Nghiên cứu lịch sử của Ðảng trực thuộc Trung Ương Ðảng soạn thảo, phần giới thiệu nói rằng: “Ðức độ cao qúy của Hồ Chủ tịch là trung với Ðảng, hiếu với dân…..”[42]Tác phẩm này xuất bản năm 1970. Nhưng tác phẩm do Quân đội nhân dân biên soạn nói trên, tuy xuấùt bản năm 1979, cũng nói như vậỵ Và tác phẩmHồ Chí Minh Tuyển Tập do Nhà Xuất bản Sự Thật xuất bản năm 1980 vẫn còn nói “Hồ Chủ Tịch chỉ rõ, đạo đức cách mạng là….“trung với Ðảng, hiếu với dân…” [43] Ðều này cho thấy rõ những cấp lãnh đạo của ÐCSVN thực sự nghĩ như vậỵ
Vì những lẽ nêu trên, ta không lạ gì khi thấy các lãnh tụ của Ðảng, như ông Phạm Văn Ðồng, đồng hoá yêu nước với yêu xã hội chủ nghĩa, hay, đi xa hơn nữa, như ông Lê Duẫn, đồng hóa dân tộc với xã hội chủ nghĩạ Trong một bài nói chuyện về “Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa yêu nước” năm 1958, ông Ðồng nói: “Ở miền Bắc, yêu nước là tiếp thu chủ nghĩa xã hội” [44] Báo cáo chính trị Ðại hội IV, do Lê Duẫn đọc, ghi rằng: “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một” [45] Nhưng Trung Ương ÐCSVN còn đi xa hơn một bước nữa và đồng hoá Tổ quốc với xã hội chủ nghĩạ Nghị quyết Ðại hội IV tuyên bố: “Ngày nay, nước nhà đã hoàn toàn độc lập thì Tổ quốc và xã hội chủ nghĩa là một”. [46]
Quan niệm dân tộc và xã hội chủ nghĩa là một, và ngay cả Tổ quốc và xã hội chủ nghĩa cũng là một, kết hợp với quan niệm bôn-sê-vích dân chủ tập trung, đưa đến quan niệm Ðảng là tất cả và Ðảng là trên hết là chuyện dĩ nhiên, vì Ðảng là hiện thân của chủ nghiã xã hộị “Ðảng vi qúy, xã tắc thứ chi”. Ðều này đã được ghi vào điều 4 của Hiến pháp 1982. Như vậy bảo đảm được sự phục tùng tuyệt đối của dân chúng đối với Ðảng, nghĩa là với nhóm cầm quyền của Ðảng tự coi là vuạ Theo nguyên tắc dân chủ tập trung, các đảng viên còn phải phục tùng một cách tuyệt đối hơn nữạ Sự kiện này, kèm với nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” và nguyên tắc “nhất trí” trong Ðảng, là nguyên do chính chận đứng hết các sáng kiến mới, lạ, dù những sáng kiến này có hay, đúng và có lợi cho xứ sở đến mức nào nếu nó đi ngược quan điểm và quyền lợi của nhóm năm thực quyền. Tóm tắt, với chủ trương đặt Ðảng lên trên hết, ông Hồ đẩy ÐCSVN vào một thế kẹt tuyệt đối, không thể đi một con đường nào mới hết, và nước và dân Việt Nam cũng bị kẹt theo luôn.
V – Tạm kết
Ðối với sử gia, phê phán một nhân vật chính trị là một đều rất khó, rất tế nhị. Nó đòi hỏi một sự dè dặt tối đạ Ðối với một nhân vật chưa thuộc hẳn về lịch sử vì chỉ khuất thế không được bao lâu, phê phán chỉ có thể có tính cách sơ bộ, tạm thời, vì thiếu dữ kiện đầy đủ và đáng tin.
Trong trường hợp một đối tượng như ông Hồ, có hai lý do chính khiến cho sử gia phải dè dặt hơn thường lệ. Một là tuyên truyền quy mô của cọng sản và giới thiên tả Việt Nam và quốc tế trong 40-50 năm qua đã tạo ra những huyền thoại ăn sâu trong dư luận, rất khó tranh cãị Hai là trong một chế độ mà kỷ thuật che dấu đạt mức tối hảo, những dữ kiện về lãnh tụ của chế độ được giữ rất kín. Người ngoài Ðảng chỉ biết được những gì Ðảng muốn.
Tuy nhiên, với thời gian, dần dần sự thực cũng ra ánh sáng, và chân dung của các lãnh tụ cọng sản lộ ra càng ngày càng rõ. Ví du:ï Stalin được thần thánh hoá trong khi ông còn sống, nhưng chỉ 4 năm sau khi ông qua đời (1953), Khrushchev, người kế vị ông ta, đưa ra ánh sáng những chuyện kinh khủng mà ông đã làm, gây kinh ngạc trên thế giớị Gần đây, những bê bối của Mao Trạch Ðông, thần tượng của hàng chục triệu người cọng sản và chủ trương cách mạng thế giới, bị Bác sĩ Li Zhisui, y sĩ tư của ông lúc ông còn là một thánh sống, đem phơi bày trong một tác phẩm làm chấn động thế giới,The Private Life of Chairman Mao (Cuộc đời tư của Chủ tịch Mao),[47] nhứt là sau khi tác phẩm này được BBC dùng làm chất liệu cho một cuốn phim về Maọ Ðây cũng là trường hợp của một lãnh tụ cọng sản khác, ông thánh lớn nhứt của phong trào cọng sản, Lê-nin. Sau khi Liên-Xô sụp đổ hồ sơ mật của cọng sản được mở cho sử gia xem, và Tướng Dmitri Volkogonov, giám đốc của Viện Sử học quân sự Nga, đã cứu xét những tài liệu về Lê-nin được giữ kín, và viết một tác phẩm về Lê-nin, Lenin, A New Biography (Lê-nin, một tiểu sử mới),[48] phơi bày tính cách ác quỷ của ông thiên thần Liên-Xô này lúc ông còn sống.
Về ông Hồ Chí Minh ta có thể tin chắc rằng không chóng thì chầy cũng sẽ có những sự tiết lộ như vậỵ Trong mấy chục năm qua, chính sách của Ðảng là thần thánh hoá ông Hồ, tạo ra hình ảnh “Bác” là một người hoàn toàn, không thể chê bai chỉ trích được. Ðụng đến “Bác” là một đều tối cấm kỵ. Ðều này, trong và ngoài Ðảng, ai cũng biết. Không ai muốn chuộc hoạ vào thân cả, nhứt là tình hình quốc nội cũng như quốc tế có vẻ chứng minh rằng những gì “Bác” đề xướng, chủ trương, giáo huấn đều đúng. Ở trong xứ thì Mỹ đang thua, ở trên thế giới thì liên minh Nga-Hoa có vẽ vững chắc, Liên-Xô hết sức hùng mạnh và đang đà vươn lên. Do đó, không ai nghi ngờ hay thắc mắc về những tính từ hoa mỹ được dùng để thần thánh hoá “Bác”.
Một phần không nhỏ những tính từ này xuất phát từ chính ngòi bút của ông Hồ. Là một đại chuyên gia về tuyên truyền, ông đã tự tạo ra huyền thoại về ông. Thủ đoạn của ông rất tinh vị Trong những năm 1945-1948, chẳng ai biết gì về ông Hồ, vì trước đó ông ta đích thân áp dụng nguyên tắc mà ông dạy đồ đệ ông ta rất kỹ lúc huấn luyện họ ở Trung quốc: không cho ai biết gì về mình cả. Trong mấy năm liền, ký giả và học giả, nhứt là ngoại quốc, như bị giam đóị Ðến lúc quyển tiểu sử đầu tiên về ông Hồ, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, mang tên tác giả Trần Dân Tiên, xuất hiện năùm 1948, mọi người đều vồ lấy nó như vồ một khúc bánh mì qúy báụ Ðến năm 1950, một quyển nữa, mỏng hơn, Vừa đi đường vừa kể chuyện, mà tác giả là T.Lan, xuất hiện. Không ai biết tác giả thật của hai tiểu sử ông Hồ đó chính là ông ta !
Năm 1985, một tác giả cọng sản, Hà Minh Ðức, có lẽ với mục tiêu chuẩn bị việc ÐCSVN vận động UNESCO tuyên dương ông Hồ là một đại văn hào, xuất bản một tác phẩm đề cao tài năng của ông ta về phương diện văn chương. Tác phẩm này, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, [49] tiết lộ rằng tác giả của hai tiểu sử của ông Hồ nói trên chính là ông Hồ. Tác phẩm này được Nguyễn Khánh Toàn, một cán bộ cao cấp ÐCSVN biết rõ ông Hồ từ thời ông ở Môskôva, đề tựạ Phần khác, tiết lộ của Hà Minh Ðức không hề bị lãnh đạo ÐCSVN cải chính. Những sự kiện này xác nhận những xì xồ ở Hà Nội rằng [hai quyển đó] “của ”Bác” đấy” là có căn cứ vững chắc.
Biết đích xác rằng ông Hồ là tác giả thực sự của hai quyển tiểu sử về ông là một đều rất quan trọng vì nó giúp ta hiểu một phần lớn tại sao có huyền thoại về một Hồ Chí Minh yêu nước, cách mạng, thiên tài, toàn vẹn, và có biết bao nhiêu tài nhiều đức khác, mà mọi người được nghe hằng ngày trong suốt mấy chục năm trời, và ngày nay vẫn còn nghẹ
Những mỹ từ đó chính ông Hồ đã viết ra tự tay ông trong hai quyển tiểu sử nói trên. Nếu ta ghi lại tất cả những mỹ từ tâng bốc đó thì nó chiếm toàn bộ 4 (bốn) trương giấùy đánh máỵ Sau đây là một số mà ta thường nghe/đọc, trích từ Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch:
“không muốn nói đến thân thế của mình…” (tr.5); “người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết”; “một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc”; “ông Nguyễn suốt ngày nghĩ đến Tổ quốc, và suốt đêm mơ đến Tổ quốc” (tr.45); “một vị Chủ tịch khác thường” (tr.108); “người con yêu qúy nhất của dân tộc Việt Nam” (tr.108); “giản dị, thân mật, như một người cha yêu dấu đối với đám con” (tr.110); “luôn luôn là người cách mạng trong sạch, hăng hái” (tr. 126); “nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch” (tr. 134); “nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấùy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với Cha già của dân tộc” (tr.134); “Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, đến dân tộc” (tr.136); “mọi người kính mến Hồ Chủ tịch, nhất là thanh niên và nhi đồng” (tr.137); “nhâ dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam” (tr.138).” (tr.138); “Hồ Chủ tịch thì ít muốn nói về mình” (tr.138).
Xin nhắc lại, và nhấn mạnh ở đây là tất cả những lời lẽ tâng bốc ông Hồ trên đây đều tự tay ông viết rạ Nhưng đều này, trong mấy chục năm, không ai biết, và vì thế huyền thoại về ông được tạo ra dễ dàng.
Như đã nói ở trên, qua thời gian, rồi cũng có những tiết lộ về ông Hồ xuất phát từ những người trong ÐCSVN, hay giới thân cận của ông, cũng như trong trường hợp của những thần tượng cọng sản Lê-nin, Stalin, và Maọ Thật ra, thì thủ đoạn tự tâng bốc mình của ông Hồ rồi sẽ làm hại cho ông nhiều, vì con người có khía cạnh tốt có khía cạnh không tốt. Khi người ta đã quen chỉ nghe/đọc toàn những gì tốt tột bực về một lãnh tụ thì khi được nghe những đều không tốt, những đều này lại tự nó phồng lên, như trong trường hợp mấy lãnh tụ nêu trên. Người ta sẽ quên rằng ông Hồ, cũng như tất cả mọi người khác, không những chỉ có nhược điểm, mà cũng có ưu điểm, và sẽ phê phán ông gắt gao, khi những nhược điểm của ông bị đưa ra ánh sáng.
Có thể nói rằng, với sự sụp đổ của Ðông Âu và Liên-Xô, sự hạ bệ của mấy thần tượng Cách mạng tháng 10, sự từ bỏ chủ thuyết Mác-Lê và giải thể của Ðảng cọng sản và quốc gia Liên-Xô, thời điểm này đã bắt đầụ Những biến cố này đã gây dao động trong hàng ngũ ÐCSVN, ngay cả trong lớp cao cấp, và đối với ông Hồ cũng bắt đầu có nghi vấn. Như Lê Văn Yến, thuộc Nhà Xuất bản chính trị quốc gia, ghi nhận:“trước sự sụp đổ của Liên-Xô và Ðông Âu cũng đã xuất hiện những luận điệu chống Hồ Chí Minh”. (TCCS, 11/1993)
Thật ra thì, trong tình trạng đã động đến ông Hồ là một đều tối cấm kỵ, những chống đối ông ta chỉ có thể làm một cách gián tiếp, dùng chủ thuyết Mác-Lê-nin làm đối tượng. Vì ông Hồ là người đã đưa chủ thuyết này vào Việt Nam, sáng lập ra ÐCSVN, chiêu mộ đảng viên, huấn luyện và lãnh đạo họ, nên, trong thực tế, chỉ trích chống đối chủ thuyết này là chỉ tích chống đối ông tạ
Quan niệm như trên thì những chống đối ông Hồ công khai bắt đầu năm 1989 với chỉ trích nặng nề của Dương Thu Hương đối với chủ nghĩa xã hộị Kế đó, Phan Ðình Diệu cũng phát biểu tương tự trong một văn kiện gây tiếng vang lớn, “Kiến nghị về một chương trình cấp bách” (1991). Từ đó, số người công khai phát biểu như vậy càng ngày càng nhiều, và phát biểu của họ càng táo bạo hơn. Thật ra thì quan điểm này đã được Hà Sĩ Phu đưa ra từ năm 1988 trong bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, nhưng bài này đã bị lãnh đạo ÐCSVN ém nhẹm, và chỉ được công chúng biết đến vào năm 1993, khi nó được chuyển lậu ra khỏi xứ và được các báo Việt Nam ở ngoại quốc đăng tảị Sau đó, Hà Sĩ Phu chỉ trích chủ thuyết Mác-Lê rất gay gắt, nhưng rất sâu sắc và chính xác, trong hai tác phẩm cực kỳ quan trọng, là: Ðôi đều suy nghĩ của một công dân (1993), vàChia tay ý thức hệ (1995). Một số cán bộ khác cũng lên tiếng chỉ trích nặng nề chế độ hiện tại và kêu gọi Ðảng chuyển hướng, bỏ con đường Mác-Lê. Trong những người này có những nhân vật danh tiếng trong giới cọng sản, như các ông Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Trần Ðộ. Nhưng bỏ con đường Mác-Lê là bỏ “con đường mà Bác đã lựa chọn”, là nói rằng Bác đã đi lầm đường và dẫn ÐCSVN và dân Việt Nam đi lầm đường!
Người đã phạm việc “cấm kỵ ghê gớm nhất hiện nay ở Việt Nam”, giám công khai phế phán đích danh “Bác Hồ”, là Lữ Phương. Ông này là người đầu tiên dám làm việc động trời đó trên lãnh thổ của nước Việt Nam cọng sản đang dưới sự trị vì của một nhóm lãnh đạo đã công bố nhiều lần quyết tâm tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê trong sáng.
Vì chủ đề ở đây không phải là phong trào kháng đối cọng sản tại Việt Nam, nên ta chỉ cần nêu lên điểm bao quát nhứt trong sự chỉ trích ông Hồ của Lữ Phương trong một bài phân tích có thể nói là chứa chất nổ: “Ðàm thoại về chủ nghĩa xã hội mácxít”. Ông ta nói:
“Trước khi nói đến cái “trung thành” [đối với cái gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học], thiết tưởng phải tìm hiểu xem cụ Hồ chọn lựa như thế nàỗ.người ta được biết khi chọn lựa chủ nghĩa xã hội, cụ chẳng hiểu bao nhiêu về nó: cụ chẳng hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp, là bóc lột, là chiến lược, sách lược và bao nhiêu khái niệm khác nữẳLà người cách mạng….cụ Hồ cứ thế mà đi tới — có lẽ chẳng bao giờ có thể ngờ về tính quá đơn giản trong sự lựa chọn của mình….cụ không thể nào lường được rằng khi làm như vậy cụ đã cột chặt số phận dân tộc vào một tổ chức quốc tế, một ý thức hệ không thể giải phóng được con ngườị Sự bất lực trong phát triển kinh tế, sự trấn áp cực kỳ ác liệt về chính trị và văn hoá mà mô hình xã hội chủ nghĩa xã hội nhân danh Mác, nhân danh cuộc cách mạng vô sản mang đến cho dân tộc Việt Nam suốt bao nhiêu năm là đều quá rõ ràng: độc lập đã có, nhưng tự do, hạnh phúc thì không — đó là đều mà bất cứ người Việt Nam bình thường nào cũng có thể chứng minh được…việc đem ra thực hiện một cách toàn diện cái mô hình chủ nghĩa xã hội phi thị trường và chuyên chính vô sản, trong suốt một thời gian đằng đẵng làm cho dân tộc cất đầu dậy không nổi trước sự đổi thay của thế giớị Chẳng lẽ cụ là người sinh ra đảng, người lập ra nước mà không dính dáng, không trách nhiệm gì trước những chuyện tầy đình đó hay saỏ”[50]
Vấn đề trách nhiệm của ông Hồ, giá trị của “tư tưởng” và sự đúng sai của “đường lối” của ông, không sớm thì muộn, sẽ được đặt ra một cách quy mô và sôi nổi hơn, không những trong công chúng, mà ngay cả trong hàng ngũ của ÐCSVN. Trong những năm gần đây, đã có sự tranh luận sôi nổi trong Ðảng về vấn đề có nên duy trì hay không đường lối hiện nay của Ðảng, nghĩa là đường lối “mà Bác Hồ đã lựa chọn”. Bằng chứng về sự kiện này đầy dẫỵ Không những cán bộ ở cấp trung, mà ngay cả ở cấp lãnh đạo, cũng có những sự “băn khoăn” và “trăn trở”.
Về cán bộ cấp trung, ta chỉ dẫn hai thí dụ. Một là Nguyễn Kiến Giang. Tuy xuất thân từ một gia đình đã hai đời cọng sản, có hơn 40 tuổi đảng và tự nhận là một đảng viên trung kiên, nhưng ông đã lên tiếng nói rằng chủ nghĩa xã hội hằng gọi là khoa học chỉ là một không tưởng, và chính chế độ tư bản, chớ không phải chế độ xã hội chủ nghĩa mới đem lại công bằng xã hội cho giới lao động được.[51] Hai là Hà Nghiệp, nguyên bí thư của Trường Chinh, nay là trợ lý của Ðỗ Mườị Trong một báo cáo tại Viện Mác-Lê-nin, năm 1992, ông ta nói:
“Chúng ta thiết kế xã hội theo cách vẽ ngựa rồi mới đi tìm ngựẳ.Ðến nay, chúng ta chưa rõ mình là aị…chúng ta là ai, chưa thật rõ….Lâu nay chúng ta kiên định chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội là gì thì chúng ta chưa rõ. Cái xã hội chủ nghĩa thực tế đã thực hiện mấy chục năm nay ở Liên-Xô và các nước Ðông Âu thì đã tan rã. Nếu nói nước ta đi theo kiểu ấy thì dân sợ….Tôi đề nghị nên nói:“Chúng ta kiên trì mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội” chứ không nên nói kiên trì xã hội chủ nghĩa vì cái đó ta chưa biết…….nên khẳng định kiên trì tư tưởng Hồ Chí Minh, không nói Mác-Lê-nin.”[52]
Hà Nghiệp đã chỉ trích chế độ cọng sản Việt Nam hiện tại một cách rất khéo léo, và cố ý biện giải cho ông Hồ, nhưng trong thực tế, những gì ông ta chỉ trích và chủ trương bỏ đi lại là những gì mà, trong suốt mấy chục năm trời, chính ông Hồ đã đòi hỏi đảng viên phải trung thành tuyệt đốị
Ở một cấp cao hơn, ban chủ nhiệm Tạp Chí Cọng Sản, trong một bài xã luận, năm 1992, nói thẳng rằng:
“Những năm đầu thành lập Ðảng, do chịu ảnh hưởng đường lối “tả”û khuynh của Quốc tế cọng sản cho nên có lúc chúng ta quá nhấn mạnh tới yếu tố giai cấp, xem nhẹ yếu tố dân tộc….gạt bỏ mọi nhân tố dân tộc và yêu nước trong các giai cấp và tầng lớp xã hội khác….Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi Ðảng ta chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất…..do áp dụng kinh nghiệm nước ngoài [Trung Cọng] một cách giáo điều, máy móc, nên ta đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng…..” [53]
Vì vô tình hay cố ý, tác giả không nói rõ rằng người ra lệnh phải theo Ðệ Tam Quốc tế, và áp dụng kinh nghiệm của ÐCS Trung Quốc là ông Hồ !
Ở cấp cao nhứt của Ðảng, trước Quốc hội, năm 1991, ông Ðỗ Mười đã nêu vấn đề:“Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, một câu hỏi lớn đặt ra trước Ðảng, toàn dân ta, trở thành nổi băn khoăn trăn trở của nhiều ngườị Ðó là đất nước ta phải đi theo con đường nàỗ..”[54]. Trước Ðại hội VII (1991), ông Nguyễn Văn Linh công khai ghi nhận rằng vì cuộc khủng khoảng của các nước xã hội chủ nghĩa, “ngay trong hàng ngũ những người cọng sản cũng có hiện tượng dao động về lập trường, những khuynh hướng phủ định các thành tựu, từ đó phủ định con đường xã hội chủ nghĩa” [55]
Ðối với một đảng viên ÐCSVN đặt câu hỏi “phải đi theo con đường nàỏ” và phủ định con đường xã hội chủ nghĩa là đương nhiên hàm ý đòi từ bỏ “con đường mà Bác đã lựa chọn”.
Như đã thấy ở phần IV, ông Hồ đã để lại một di sản gồm 5 điểm lớn. Thực tại đã chứng minh là về điểm nào ông ta cũng saị Cũng như tất cả mọi người, một lúc nào đó, ông phải trực diện với thời gian và chịu sự phê phán về những sai lầm nàỵ Sự phê phán này sẽ nặng nề đối với ông vì đồ đệ của ông, và ngay cả ông nữa, đã phong thần phong thánh ông, cho ông là thiên tài, không thể sai được, cũng như ông đã tin rằng Lê-nin, Stalin, và Mao không thể sai được.
Xét một cách khách quan và rộng rãi, ông Hồ chỉ là một người như mọi người khác, có thể sai lầm. Nhưng, như các sử gia thường nói: “càng là nhân vật vĩ đại thì sai lầm càng vĩ đại”. Người ta đã “vĩ đại” hoá ông Hồ, và như vậy, những sai lầm của ông cũng sẽ bị vĩ đại hoá. Có lẽ vì thế mà ông Phạm Văn Ðồng, sau bao nhiêu năm đóng góp vào sự vĩ đại hoá ông Hồ, sau khi thấy các thần tượng cọng sản Ðông Âu và Liên-Xô bị hạ bệ, đã thấy nguy cơ đóù nên đã đưa ra một quan điểm chính xác hơn, có thể chấp nhận hơn, là: “Hồ Chí Minh trước hết là một con người, và cuối cùng cũng chỉ là một con ngườị Nói Hồ Chí Minh là một ông Thánh là một cách hiểu phi hiện thực và phi khoa học”.[56] Nếu tất cả mọi người đều nghĩ như vậy, nhứt là trong ÐCSVN, thì may cho ông Hồ lắm !
Riêng về “tư tưởng Hồ Chí Minh” thì chính cán bộ cao cấp của ÐCSVN cũng phải lo lắng là nó không có tương laị Song Thành, viện trưởng Viện Hồ Chí Minh, đã rất lo ngại cho tương lai “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Ông viết trong Tạp Chí Cọng Sản, cơ quan chỉ đạo tư tưởng của ÐCSVN:
“Ngoài xã hội, điều dễ nhận thấy là ở lứa tuổi thanh niên thiếu niên trưởng thành từ năm 1975, tri thức và tình cảm về Bác Hồ thua kém rất xa so với các thế hệ cha anh. Nếu tình hình này tiếp tục, thì chắc chắn rằng ước muốn làm co tư tưởng Hồ Chí Minh cũng trở thành kim chỉ nam cho hành động, giữ vị trí chỉ đạo trong xã hội ta, chỉ là ước muốn.”[57]
Cũng như Song Thành, ông Phạm Văn Ðồng ghi nhận: “Trừ một vài trường hợp đặc biệt, còn thì tuổi trẻ không thích vào Ðảng, đồng thời thanh niên cũng không hào hứng vào Ðoàn….” “Ðoàn” ở đâây là Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Tại saỏ Vì, ông Ðồng đáp:“ Ðảng ta, Nhà nước ta và Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chưa chú ý đầy đủ đến tuổi trẻ…..”[58]
Hiện tượng nêu trên không đáng làm cho ta ngạc nhiên. Như đã trình bày ở đoạn trên, chính ông Hồ đã nói là ông không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng Mác-Lê-nin. “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một sản phẩm giả tạo, do nhóm nắm quyền hiện tại của ÐCSVN tạo ra để tiếp tục trị vì theo kiểu bôn-sê-vích. Họ không thể biến một cái gì không có thành cái có được. Bản chất của “tư tưởng Hồ Chí Minh” là một cái bánh vẽ của nhóm cầm quyền ÐCSVN hiện tại, thì trong tương lai nó vẫn là một cái bánh vẽ. Do đó, sự kiện tưổi trẻ và thanh niên, là những giới thích thiết thực và nhìn về tương lai, không thiết tha gì về Ðảng và Bác không có gì lạ. Nhưng nếu giới trẻ, là giới sẽ tiếp tục mang đưốc “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thờ ơ với Bác thì “tư tưởng Hồ Chí Minh” sẽ cùng một số phận của mẫu hình Mác-Lê-nin của nó.
Ngày nay, tính chất không tưởng, bất khả thi, của chủ nghĩa Mác-Lê-nin càng ngày càng rõ rệt. Ðều này đã được những công trình nghiên cứu phân tích của Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, Lữ Phương,v.v.. chứng minh về lý luận, và sự sụp đổ của các nước Ðông Âu chứng minh về thực tạị Do đó, “Tư tưởng Hồ Chí Minh” chẳng có tương lai gì cả. Có lẽ vì vậy mà ông Phạm Văn Ðồng đã đưa ra phương thức “chủ nghĩa xã hội theo bản sắùùc Việt Nam”.[59] Nhưng, cũng như “tư tưởng Hồ Chí Minh” trước nó, “chủ nghĩa xã hội theo bản sắc Việt Nam” là gì? Một cái gì thực sự mới, Việt Nam, dân chủ hơn, nhân đạo hơn, khả thi hơn, được dân chúng sẵn sàng chấp nhận hơn, hay vẫn chỉ là “chủ nghĩa Mác-Lê-nin vận dụng sáng tạo” như “tư tưởng Hồ Chí Minh”? Thêm một cái “vậy mà không phải vậy”?
Viết xong ngày 1-6-1996 tại Ottawa
17105 chữ 115712 bytes
CHÚ DẪN
[1] Vụ Biên soạn Ban tuyên huấn trung ương, Lịch sử Ðảng Cọng Sản Việt Nam, Tập III, NXB Sách giáo khoa Mác-Lê-nin, 1979, tr.357-367.
[2] Lê Duẫn, Hồ Chí Minh, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1986, tr.85
[3] Xem: Tôn Thất Thiện, “Ðường lối ngoại giao của Ðảng Cọng Sản Việt Nam” trong: Ðảng Cọng Sản trước thực trạng Việt Nam, Ðường Mới, Paris, 1994.
[4] Văn kiện Ðại hội VI… ,TCCS, 1-1987.
[5] Xem Tôn Thất Thiện, tài liệu đã dẫn.
[6] ÐCSVN, Văn kiện Ðại hội VII, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1991.
[7] Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh…”, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1993, tr.37.
[8] Phạm Văn Ðồng, Hồ Chí Minh…” Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1993, tr.94.
[9] Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Paris, Seuil, 1963/1969, tr.204.
[10] Phỏng vấn, Ngày Nay (Houston), số 333, 1/12/1995.
[11] Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Westminster, C.Ạ,NXB Văn Nghệ, 1995. tr.150-152.
[12] Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh, sách đã dẫn, tr.9.
[13] Văn kiện Ðại hội VII, tài liệu đã dẫn, tr.159.
[14] “Con đường dẫn tôi đến Lê-nin”, 4/1960, trong: Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, T.II, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1980, p.175. Xem chú dẫn 16.
[15] “Ðường Kách Mệnh”, Tuyển Tập, I tr.233. Xem chú dẫn 16.
[16] Hồ Chí Minh Toàn Tập, 10 tập, Hà Nội, NXB Sự Thật, từ 1980 đến 1989, và Hồ Chí Minh Tuyển Tập, I: 1920-1954, và II: 1955-1969, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1980. Những bài quan trọng nhứt (trong Tuyển Tập) là:
1 – Ðuờng Kách Mệnh, 1927, (Tập.I). 2 – Chánh cương vắn tắt của Ðảng, 1930 (T.I). 3 – Báo cáo chính trị, Ðại hộâi II, 1951 (T.I). 4 – Nói chuyện với cán bộ các cơ quan Ðảng…… trung ương, 1953, (T.I). 5 – Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Bài viết cho Pravda, 1955, Tập II). 6 – Ðạo đức cách mạng, 1958, (T.II). 7 – Báo cáo với Quốc hội về dự thảo Hiến pháp mới, 1959, (T.II). 8 – Ba mươi năm hoạt động của Ðảng, 1960, (T.II). 9 – Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin, 1960, (T.II).10 – Diễn văn khai mạc Ðại hội III, 1960, (T.II). 11 – Hai mươi năm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Viết cho tạp chí Thời mới (New Times), Liên-Xô, 1965, (T.II). 2 – Bài nói chuyện ở lớp huấn luyện đảng viên mới, 1966, (T.II). 13 – Những bài học lớn của Cách mạng tháng 10. Viết cho báo Pravda nhân dịp 50 năm kỷ niệm thành lập Liên-Xô. 1967, (T.II). 14 – Về chủ nghĩa Lê-nin và cách mạng Việt Nam. Phỏng vấn bởi phóng viên báoL’Humanité, Charles Fourniau, 1969, (T.II).
Lenin, Selected Works, 3 volumes, Moscow, Progress Publishers, 1977. Những tác phẩm của Lê-nin liên quan nhứt đến vấn đề này là:
1 – What is to be done (Phải làm gì?), 1902, (T.I). 2 – Two tactics of social-democracy in the democratic revolution (Hai chiến thuật của dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ), 1905, (T.I). 3 – Lessons of the Moscow uprising (Những bài học của cuộc khởi nghĩa Môskôva), 1906, (T.I). 4 – Imperialism (Chủ nghĩa đế quốc), 1917,(T.I). 5 – On compromises (Bàn về nhân nhượng), 1917, (T.II). 6 – The State and Revolution (Quốc gia và Cách mạng), 1917, (T.II). 8 – Marxism and insurrection (Chủ nghĩa mác-xít và khởi nghĩa, 1917, (T.II). – 9 – The proletarian revolution and the renegade Kautsky (Cuộc cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky), 1918, (T.III). 10 – Những diễn văn tại các đại hội của Ðệ Tam Quốc tế, 1919-1924, (T.III). 11 – Left-wing communism, an infantile disorder (Cọng sản tả khuynh – một bệnh ấu trĩ), 1920, (T.III).
Ngoài những tác phẩm trên tưởng cũng nên nhắc đến quyển Principes du Leninisme (Nguyên lý chủ thuyết Lê-nin) của Stalin, là tác phẩm quen thuộc của tất cả những người cọng sản Việt Nam trước 1945.
[17] Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hà Nội, NXB Văn Học, 1976 (1948). Tác giả thực sự của tác phẩm này là ông Hồ.
[18] David Shub, Lenin, New York, Mentor Books, The New American Library, 1948, tr.142-143.
[19] Tuyển Tập, T.I, tr.240, 263, 15.
[20] Tuyển Tập, T.Ị tr.317.
[21] Xem các nghị quyết của ÐCSVN từ 1930 đến 1936, trong: Lịch sử Ðảng Cọng SảnViệt Nam, Tập I, sách đã dẫn, tr.53 và kế tiếp.
[22] Xem chương về “The Comintern and the Communist Party of Indochina” (Ðệ Tam Quốc tế và Ðảng Cọng Sản Ðông Dương), trong tác phẩm của Ạ Reznikov: The Comintern and the East, Moscow, Progress Publishers, 1978, tr.161-181.
[23] Trong: Al Santoli, To Bear Any Burden, New York, ẸP.Dutton, 1985, tr.32 vkt.
[24] Hoàng văn Hoan, hồi ký,Dọt nước trong biển caû, Bắc Kinh, NXB Tin Việt Nam, 1986, tr.287-291.
[25] Archimedes L.ẠPatti, Why Viet Nam ? Berkeley, University of California Press, 1980, tr.246.
[26] Ban Nghiên cứu lịch sử Ðảng: Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội, NXB Sự Thực, 1970, tr.8 và 25.
[27] Phạm Văn Ðồng, “Hồ Chủ Tịch, tinh hoa và khí phách của dân tộc,lương tâm của thời đại”, trong: Một số vấn đề Nhà nước, Hà Nội, NXBSư Thật, 1980, tr. 186 vkt.
[28] Trường Chinh, Hồ Chủ Tịch, sách đã dẫn, tr.37.
[29] Lê Duẫn, Chủ Tịch Hồ Chí Minh, sách đã dẫn, tr. 21.
[30] Diễn văn khai mạc, Ðại hội III, 5-9-1960, Tuyển Tập, T.IỊ, tr.186.
[31] Phạm Văn Ðồng, Một số vấn đề Nhà nước, sách đã dẫn, tr.193.
[32] Ðảng Cọng Sản Việt Nam, Báo cáo chính trị…Ðại hội IV, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1977, tr.47.
[33] Diễn văn nhân dịp kỷ niệm 30 năm hoạt động của Ðảng, 6-1-1960, trong: Tuyễn Tập , T.II, tr.159.
[34] Báo cáo chính trị, Ðại hội II, 1951, trong: Tuyển Tập, T.I, tr.461.
[35] Diễn văn khai mạc Ðại hội III, tài liệu đã dẫn, tr. 186-187.
[36] Báo cáo chính trị, Ðại hội IV, 1976, tài liệu đã dẫn, tr. 167-169, và 173.
[37] Báo cáo chính trị, Ðại hội VI, tài liệu đã dẫn, tr.31.
[38] Ðảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hộị.. VII, Hà Nội, NXB Sự Thật, tr.168, 146.
[39] Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, T. II, tr. 16.
[40] “Ðạo đức cách mạng”, trong Tuyển Tập, T.II, sách đã dẫn, tr.97, 101.
[41] Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam 1944-1979, Hà Nội, 1979, tr. 296.
[42] Ban Nghiên cứu lịch sử Ðảng, Chủ Tịch Hồ Chí Minh, sách đã dẫn, tr. 8.
[43] Lời giới thiệu, trong: Hồ Chí Minh Tuyển Tập, T.I, sách đã dẫn, tr. XXVIIỊ
[44] Phạm Văn Ðồng, Những chặng đường thắng lợi và vẻ vang, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1985, tr.97.
[45] Báo cáo chính trị Ðại hội IV, tài liệu đã dẫn, tr. 40.
[46] Ðảng Cọng Sản Việt Nam, Nghị quyết Ðại hội IV, Hà Nội, 1977, NXB Sư Thật, tr.16.
[47] Dr Li Zhisui, The Private Life of Chairman Mao, New York, Randonm House, 1994.
[48] Dmitri Volkogonov, Lenin, A New Biography, New York, The Free Press, 1994.
[49] Hà Minh Ðúc, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội, NXB khoa học xã hội, 1985.
[50] Lữ Phương, “Ðàm thoại về chủ nghĩa mácxít”, Diễn Ðàn (Paris), số 24 (11.93).
[51] Nguyễn Kiến Giang, Việt Nam khủng khoảng và lối ra, Garden Grove, CA, Trăm Hoa, 1993, và: Nguyễn Kiến Giang Tuyển Tập. Garden Grove, CA,Trăm Hoa, 1993.
[52] “Báo cáo của đồng chí Hà Nghiệp”, trong: Ðối thoại Garden Grove, CA, số 2, 1994, tr.152 vkt.
[53] Xã luận, Tạp Chí Cọng Sản, 2/1992.
[54] Ðỗ Mười, Phát biểu tại Quốc Hội, 27-7-1991,trong: Ðẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, Tập I, Hà Nội, NXB Sự Thật, 1992
[55] Nguyễn Văn Linh, Báo cáo về các văn kiện Ðại hội VII, 24-6-1991,Ðổi Mới để tiến lên, Tập IV, NXB Sự Thật, 1992, tr.154.
[56] TCCS, 3-1992.
[57] Phạm Văn Ðồng, Hồ Chí Minh, sách đã dẫn, tr.130.
[58] – nt- , tr.98.
[59] – nt -, tr.9, 112.